Ngày 30/11/2021, Công ty Cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) phối hợp cùng Báo VietnamNet công bố Bảng xếp hạng VNR500 - Top 500 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2021.
Bảng xếp hạng VNR500 đã bước sang năm thứ 15 trên chặng đường tìm kiếm, ghi nhận và tôn vinh những thành tích xứng đáng của các doanh nghiệp có quy mô lớn, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả và ổn định, những doanh nghiệp đã cho thấy bản lĩnh kiên cường và là đầu tàu của nền kinh tế trong giai đoạn đầy chông gai thử thách do tác động của đại dịch COVID-19 vừa qua. Bảng xếp hạng VNR500 cũng góp phần giới thiệu thương hiệu doanh nghiệp Việt tới cộng đồng kinh doanh cũng như các nhà đầu tư trong nước và quốc tế, tạo kết nối với những doanh nhân, học giả, những “guru” hàng đầu thế giới thông qua hàng loạt các hoạt động hỗ trợ phát triển thương hiệu từ Ban Tổ chức chương trình.
Bên cạnh việc công bố Bảng xếp hạng Top 500 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2021, Vietnam Report cũng công bố Bảng xếp hạng Top 500 Doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam năm 2021. Thông tin chi tiết về danh sách và thứ hạng của các doanh nghiệp được đăng tải trên website: https://vnr500.com.vn/.
Danh sách 1: Top 10 Bảng xếp hạng Top 500 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2021
Nguồn: Bảng xếp hạng VNR500, thực hiện bởi Vietnam Report - Tháng 11/2021
Danh sách 2: Top 10 Bảng xếp hạng Top 500 Doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam năm 2021
Nguồn: Bảng xếp hạng VNR500, thực hiện bởi Vietnam Report - Tháng 11/2021
Kinh tế Việt Nam và cộng đồng doanh nghiệp VNR500: Góc nhìn từ Bảng xếp hạng VNR500 năm 2021
Trải qua gần 2 năm kể từ khi đại dịch COVID-19 bắt đầu bùng phát, kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức to lớn. Nhìn chung, các chỉ số kinh tế vĩ mô đều cho thấy nền kinh tế đã bị “tổn thương” trên nhiều phương diện và cần nhiều nỗ lực để hướng đến một giai đoạn hồi phục và tiếp tục tăng trưởng. Năm 2020, mặc dù thành công trong việc duy trì mức tăng trưởng dương nhưng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã giảm xuống mức 2,9%. Tuy nhiên, với những giải pháp giãn cách xã hội nghiêm ngặt để phòng chống dịch thì đến quý III/2021, tăng trưởng kinh tế suy giảm kỷ lục với mức -6,17% so với cùng kỳ năm 2020. Tính chung trong 9 tháng đầu năm 2021 thì tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế chỉ đạt 1,42% và đây là mức tăng trưởng chậm nhất kể từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc Đổi mới (năm 1986) cho đến nay.
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế 9 tháng đầu năm 2021 chỉ tăng 1,42% so với cùng kỳ năm trước đã cho thấy hậu quả của đợt bùng phát đại dịch COVID-19 gần đây nhất tại Việt Nam. Đợt bùng phát trên diện rộng tại nhiều tỉnh thành phố đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phải thực hiện giãn cách xã hội kéo dài để phòng chống dịch bệnh. Trong bức tranh ảm đạm của nền kinh tế 9 tháng qua thì khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn là “bệ đỡ” vững chắc cho an ninh lương thực quốc gia khi có mức tăng 2,74%, bên cạnh đó là khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,57% nhưng khu vực dịch vụ lại giảm 0,69%. Số liệu nghiên cứu từ Bảng xếp hạng VNR500 năm 2021 so với Bảng xếp hạng VNR500 năm 2020 cũng cho thấy tổng doanh thu của nhóm ngành nông lâm thủy sản có mức tăng đáng kể 25,7%, trong khi khu vực công nghiệp - xây dựng và khu vực dịch vụ tương ứng giảm 14,8% và 5,9% so với năm ngoái.
Nguồn: Thống kê từ Bảng xếp hạng VNR500 năm 2020 và 2021, thực hiện bởi Vietnam Report
Đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp VNR500
Nguồn: Thống kê từ Bảng xếp hạng VNR500 năm 2020 và 2021, thực hiện bởi Vietnam Report
Xét về các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của toàn bộ doanh nghiệp trong Bảng xếp hạng VNR500 năm nay, tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA) bình quân và tỷ suất sinh lời trên doanh thu (ROS) bình quân của các doanh nghiệp bị giảm so với Bảng xếp hạng VNR500 năm ngoái. Cụ thể, ROA bình quân của các doanh nghiệp VNR500 năm nay đạt 5,31% - giảm 0,42 điểm phần trăm so với Bảng xếp hạng VNR500 năm 2020. Chỉ số ROS bình quân cũng giảm xuống 6,15% so với mức 6,58% của năm ngoái. Ở chiều ngược lại, tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) bình quân tăng nhẹ từ 16,24% trong Bảng xếp hạng VNR500 năm 2020 lên 16,42% trong năm nay.
Xét theo khu vực kinh tế, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vẫn ghi nhận hiệu quả sử dụng tài sản và vốn chủ sở hữu cùng hiệu suất sinh lời trên doanh thu tốt hơn rất nhiều so với hai khu vực kinh tế còn lại là khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân. Điểm sáng hiếm hoi đáng ghi nhận là trong khi các chỉ số này của hai khu vực FDI và Tư nhân đều cho thấy xu hướng giảm nhẹ so với năm trước, thì đối với khu vực kinh tế Nhà nước, các chỉ số đo lường hiệu quả sử dụng tài sản, vốn, khả năng sinh lời trên doanh thu có dấu hiệu tăng, đặc biệt chỉ số ROS có mức tăng nhiều nhất, 1,82 điểm phần trăm so với Bảng xếp hạng năm 2020.
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước và khả năng chống chịu các cú sốc, như COVID-19 vừa qua, đóng vai trò hết sức quan trọng do khu vực này có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Với các chỉ số trên có thể thấy về tổng thể, doanh nghiệp Nhà nước đạt kết quả hoạt động tốt hơn so với mức bình quân của các doanh nhiệp trong nước trong thời gian qua. Theo báo cáo mới đây về Kết quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước và tác động của COVID-19 của World Bank cũng chỉ ra các doanh nghiệp Nhà nước được hưởng lợi một phần từ một số chính sách trong gói hỗ trợ kinh tế COVID-19 của Chính phủ dành cho các doanh nghiệp, hầu hết các doanh nghiệp đều có khả năng kiểm soát, nhờ dự phòng và thích ứng với khủng hoảng (giữa năm 2020) thông qua những biện pháp về hoạt động và tài chính nhằm hạn chế tác động tiêu cực.
Dịch bệnh COVID tác động đến các doanh nghiệp Nhà nước và nới rộng khoảng cách về hiệu quả hoạt động, dù không đồng đều giữa các ngành. Dịch bệnh tác động đặc biệt nặng nề đến ngành vận tải và các ngành nhà hàng, khách sạn và du lịch (với mức suy giảm 14 ngàn tỷ đồng - từ lợi nhuận 3,5 ngàn tỷ đồng năm 2019 sang thua lỗ 11,1 ngàn tỷ đồng năm 2020), do những ngành này bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi các biện pháp giãn cách xã hội và hạn chế đi lại (theo báo cáo của World Bank).
Biến động tổng doanh thu của một số ngành chính trong Bảng xếp hạng VNR500 năm 2021
Nguồn: Thống kê từ Bảng xếp hạng VNR500 năm 2020 và 2021, thực hiện bởi Vietnam Report
Từ thống kê của Bảng xếp hạng VNR500 năm 2021 cho thấy hầu hết các ngành đều có sự sụt giảm về tổng doanh thu so với Bảng xếp hạng năm ngoái. Các ngành Bán lẻ, Thép, Tài chính và Điện ghi nhận tổng doanh thu tăng trưởng dương trong Bảng xếp hạng năm 2021 so với năm 2020. Các nhóm ngành còn lại chứng kiến sự sụt giảm đáng kể về tổng doanh thu trong năm qua. Những ngành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi đại dịch là Vận tải – Logistics, Khoáng sản - Xăng dầu, Cơ khí và Thực phẩm – Đồ uống.
Như vậy, đợt bùng phát đại dịch COVID-19 mới nhất đã đẩy cộng đồng doanh nghiệp vào những khó khăn, thách thức to lớn. Nhiều doanh nghiệp bị đóng cửa hoặc giảm công suất hoạt động và đối mặt với nguy cơ phá sản khi nguồn lực bị hao hụt. Chuỗi cung ứng trong nước và quốc tế bị gián đoạn thậm chí “đứt gãy” do các đợt giãn cách xã hội liên tiếp. Đặc biệt lưu ý là tình trạng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tính chung 11 tháng năm 2021 đang lan rộng với 106,5 nghìn doanh nghiệp, đồng nghĩa với bình quân một tháng có gần 9,7 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
Tác động của đại dịch COVID-19 đến doanh thu của các doanh nghiệp niêm yết trong Bảng xếp hạng VNR500 năm 2021 qua hai giai đoạn
Nguồn: Thống kê từ Bảng xếp hạng VNR500 năm 2021, thực hiện bởi Vietnam Report – Tháng 11/2021
Số liệu thống kê từ Bảng xếp hạng VNR500 năm nay đối với 270 doanh nghiệp niêm yết đã công bố báo cáo tài chính quý III/2021 cho thấy có 40,4% doanh nghiệp vẫn giữ vững được đà tăng trưởng doanh thu trong suốt giai đoạn 2019 - 2020 và 9 tháng đầu năm 2021. Bên cạnh đó, 23,3% doanh nghiệp đã bắt đầu phục hồi và lấy lại được đà tăng trưởng doanh thu trong 9 tháng đầu năm nay. Như vậy, có tới 63,7% doanh nghiệp ghi nhận doanh thu 9 tháng đầu năm 2021 tăng lên so với cùng kỳ năm trước, đây là dấu hiệu tích cực minh chứng cho những nỗ lực và khả năng thích ứng của các doanh nghiệp niêm yết trong VNR500 trước những biến động kinh tế - xã hội kể từ khi đại dịch xuất hiện. Ngoài ra, 15,2% doanh nghiệp trong số này bị tăng trưởng chậm lại và ghi nhận mức doanh thu 9 tháng 2021 giảm so với cùng kỳ năm 2020. Còn lại, 21,1% doanh nghiệp thuộc nhóm phục hồi chậm với doanh thu giảm 2 kỳ liên tiếp - doanh thu năm 2020 giảm so với năm 2019 và 9 tháng đầu năm 2021 giảm so với cùng kỳ năm trước.
Nguồn: Khảo sát doanh nghiệp VNR500, thực hiện bởi Vietnam Report - Tháng 11/2021
Trong khảo sát của Vietnam Report đối với Top 500 doanh nghiệp lớn Việt Nam cũng cho thấy những đánh giá tổng quan của cộng đồng doanh nghiệp VNR500 đối với tác động tiêu cực của đại dịch. Cụ thể, 48,7% số doanh nghiệp phải cắt giảm nhân sự, cùng với đó có tới 48,0% số doanh nghiệp bị giảm năng suất lao động và lượng khách hàng cũng bị giảm 47,4% so với khi dịch chưa bùng phát. Do vậy, doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm xuống đáng kể theo đánh giá của 57,9% doanh nghiệp VNR500; đi cùng với đó là 67,1% doanh nghiệp cho biết mức chi phí của họ tăng lên trong thời gian này.
5 Cơ hội và 4 thách thức của nền kinh tế nói chung và cộng đồng doanh nghiệp thời kỳ bình thường tiếp theo
Mặc dù nền kinh tế đã gánh chịu những tổn thất nghiêm trọng cả về mặt sản lượng quốc gia cũng như hiệu quả hoạt động thấp của cộng đồng doanh nghiệp, tuy nhiên những tín hiệu lạc quan đã xuất hiện khi mà tình hình dịch bệnh đã dần được khống chế và tỷ lệ người dân chích ngừa vắc xin tăng lên nhanh chóng. Từ đầu tháng 10/2021, Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thành phía Nam đã tái khởi động lại và dần chuyển sang giai đoạn “bình thường mới”.
Sơ bộ kết quả điều tra cộng đồng doanh nghiệp do Vietnam Report thực hiện trong năm 2021 cho thấy tổng quan có 56% doanh nghiệp lạc quan về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý IV/2021 với gần 40% doanh nghiệp đánh giá tình hình kinh doanh sẽ dần đi vào ổn định và diễn biến thị trường sẽ tốt hơn. Một số khảo sát điển hình đối với từng nhóm ngành chính trong nền kinh tế của Vietnam Report cũng cho thấy có một tỷ lệ nhất định doanh nghiệp lạc quan về cơ hội trong thời kỳ bình thường tiếp theo. Cụ thể, khoảng 10% doanh nghiệp ngành Bán lẻ nhận định thị trường sẽ nhanh chóng hồi phục và kết quả kinh doanh sẽ khởi sắc; hơn 20% doanh nghiệp ngành Thực phẩm đồ uống cho rằng đã chuẩn bị cho sự hồi phục trở lại của thị trường; 58% doanh nghiệp ngành Ngân hàng tài chính vẫn đảm bảo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và tin tưởng vào khả năng phục hồi kinh tế cuối năm.
Mặc dù vậy nền kinh tế Việt Nam nói chung và cộng đồng doanh nghiệp đang đón nhận cả cơ hội và thách thức trong những tháng cuối năm cũng như cả đầu năm 2022.
Năm cơ hội
Một là: Tỷ lệ tiêm vắc xin trong cộng đồng tăng lên nhanh chóng khi mà tính đến đầu tháng 11/2021 đã có trên 83% người từ 18 trở lên đã được tiêm ngừa ít nhất 1 liều vắc xin phòng COVID-19 tại Việt Nam. Các khu vực là trung tâm sản xuất vùng đều có tỷ lệ che phủ vắc xin ở mức cao, trên 95% dân số trưởng thành. Như vậy, tốc độ tiêm chủng và độ che phủ vắc xin tăng lên nhanh chóng cho thấy các cơ hội lớn cho việc tái khởi động lại hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong quý quan trọng nhất của năm.
Hai là: Tình hình thị trường quốc tế có nhiều chuyển biến tích cực do ngày càng nhiều quốc gia chuyển sang giai đoạn “bình thường mới” và hướng đến “sống chung với dịch”. Trong bối cảnh một số quốc gia lân cận theo đuổi chiến lược “Zero COVID”, nền kinh tế Việt Nam đang dần chuyển hướng sang tiếp cận chiến lược “Sống chung với dịch”. Do đặc thù của nền kinh tế, nếu tiếp tục chiến lược “Zero COVID”, chậm mở cửa, cơ hội đầu tư sẽ không quay lại Việt Nam và có nguy cơ tụt hậu trong quá trình phục hồi kinh tế. Thêm vào đó, các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (như Bắc Mỹ, EU và Đông Á) cũng đang có sự hồi phục tốt về nhu cầu tiêu dùng. Đây là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam có thể vượt qua được giai đoạn khó khăn này khi mà thị trường quốc tế đang vào giai đoạn cuối năm với sức tiêu thụ tăng mạnh phục vụ các kỳ nghỉ dài vào cuối năm 2021.
Ba là: Các chính sách hỗ trợ mạnh mẽ đã được thực hiện và chuẩn bị được thực hiện. Cụ thể là các chính sách giãn, giảm thuế cho doanh nghiệp và các gói hỗ trợ cho dân cư tại các thành phố lớn. Các doanh nghiệp được gia hạn, miễn giảm tiền thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất đã cho thấy sự chung tay giúp sức của cả cộng đồng trong việc thúc đẩy các doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh. Nhìn chung, các chính sách này đã giúp giảm áp lực thanh toán của các doanh nghiệp trong điều kiện lực cầu của thị trường đang còn khá yếu như hiện nay. Đây cũng là kỳ vọng lớn nhất của 82,9% doanh nghiệp trả lời khảo sát mong muốn Chính phủ tiếp tục thực hiện để hỗ trợ doanh nghiệp trong thời gian tới. Đó là nguồn tài chính giúp doanh nghiệp có thể quay vòng vốn, cũng như thanh toán một phần công nợ, giúp doanh nghiệp có thêm nguồn lực tái cơ cấu hoạt động sản xuất kinh doanh để đạt hiệu quả tốt hơn. Các địa phương có những chính sách hỗ trợ người dân về nguồn chi phí sinh hoạt cũng giúp hồi phục phần nào lực cầu của thị trường.
Nguồn: Khảo sát doanh nghiệp VNR500, thực hiện bởi Vietnam Report - Tháng 11/2021
Trong khảo sát doanh nghiệp VNR500 của Vietnam Report, bên cạnh việc ủng hộ Chính phủ ưu tiên đẩy mạnh tốc độ và mở rộng quy mô tiêm chủng vắc-xin COVID-19 (77,6%); chuẩn bị sẵn các kịch bản ứng phó nếu dịch tái bùng phát (75,0%); các doanh nghiệp còn mong muốn Chính phủ thực hiện các gói hỗ trợ lãi suất để giảm chi phí vay nợ (73,7%); kiểm soát lạm phát và ổn định vĩ mô (67,1%); tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính (64,5%). Đây là những vấn đề chính sách cốt yếu đề xuất với Chính phủ để hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp trong thời kỳ bình thường tiếp theo.
Bốn là: Các gói kích thích đầu tư công cũng như giảm lãi suất đang được triển khai hoặc dự kiến được triển khai trong thời gian tới đã hỗ trợ tích cực cho việc giúp hồi phục lại lực cầu của nền kinh tế. Nhiều dự án hạ tầng kinh tế xã hội được triển khai và tăng tốc đã giúp kích hoạt các hoạt động kinh tế xã hội tại nhiều địa phương. Với vai trò quan trọng của việc tăng mạnh chi tiêu công như “vốn mồi”, các hoạt động kinh tế xã hội được kỳ vọng sẽ hồi phục nhanh hơn trong thời gian tới. Các gói kích thích kinh tế lớn đang được bàn thảo cũng sẽ mở ra những cơ hội lớn cho cộng đồng doanh nghiệp trong năm 2022.
Năm là: Việc mở cửa hoàn toàn nền kinh tế đang được đưa ra thảo luận và có thể triển khai trong thời gian tới sẽ là “cú hích” lớn cho việc phục hồi các ngành dịch vụ như du lịch, hàng không cũng như hoạt động dịch vụ tại nhiều địa phương. Việc mở cửa đối với khách du lịch sẽ là cú hích giúp thị trường trong nước có thêm nguồn lực để chính thức bước vào giai đoạn tái thiết, phục hồi và phát triển.
Bốn thách thức
Một là: Trong vài tháng trở lại đây, đại dịch COVID-19 vẫn diễn biến rất phức tạp và khó lường. Các biến thể mới của virus vẫn đang đe dọa nghiêm trọng thành quả chống dịch của nhân loại trong gần 2 năm qua. Tình trạng thiếu hụt vắc xin ngừa COVID-19 cũng như thời gian hiệu lực của vắc xin trong sử dụng cũng đang là thách thức cho nhiều quốc gia trong việc hướng đến một giai đoạn “bình thường mới”.
Hai là: Bên cạnh năng lực sản xuất bị giảm thì nhiều doanh nghiệp phải đối mặt với tình trạng đơn hàng bị huỷ do nhu cầu của khách hàng giảm mạnh. Việc tăng giá các mặt hàng như xăng, dầu, gas, than… sẽ đẩy giá thành lên cao, chi phí sản xuất cũng tăng lên, khiến giá hàng tiêu dùng trong nước tăng cao, ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa ra thị trường quốc tế. Trả lời khảo sát của Vietnam Report, các doanh nghiệp VNR500 cho biết 03 tác động và thách thức đáng kể nhất ảnh hưởng tới tăng trưởng của doanh nghiệp trong 11 tháng đầu năm nay đó là khó khăn do thị trường trong và ngoài nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng (82,9%), khó khăn trong việc tìm kiếm khách hàng mới (56,6%), khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu đầu vào (48,7%).
Nguồn: Khảo sát doanh nghiệp VNR500, thực hiện bởi Vietnam Report - Tháng 11/2021
Chỉ xét riêng các tác động tiêu cực trong đợt bùng phát dịch lần thứ tư vừa qua, theo kết quả khảo sát được Vietnam Report tiến hành trong tháng 11 cho thấy 92,0% doanh nghiệp bị gián đoạn quy trình làm việc do nhân sự tuân thủ giãn cách xã hội; 89,2% doanh nghiệp có chi phí sản xuất tăng vọt do phương án 3 tại chỗ, cước vận chuyển, bị phạt vì vi phạm hợp đồng,…; 81,9% doanh nghiệp bị giảm sản lượng do gián đoạn sản xuất; 77,8% doanh nghiệp gặp ách tắc trong hoạt động mua nguyên vật liệu đầu vào.
Ba là: Tình trạng lạm phát gia tăng trên toàn thế giới trong bối cảnh giá cả năng lượng, nhiên liệu, vận tải trên toàn cầu được dự báo tiếp tục tăng. Hoạt động xuất nhập khẩu nguyên vật liệu vẫn bị tác động tiêu cực do tình trạng ách tắc trong vận tải quốc tế và phí vận tải tăng cao. Mặc dù quá trình mở cửa kinh tế đang được thúc đẩy nhưng bối cảnh hiện nay đang làm dấy lên lo ngại về sự kết hợp giữa tăng trưởng giảm sút nhưng mặt bằng lạm phát lại tăng cao. Đây là vấn đề có nguy cơ ảnh hưởng tới nỗ lực kích thích nền kinh tế của các ngân hàng trung ương để thoát khỏi khủng hoảng trong thời gian tới.
Bốn là: Tình trạng thiếu hụt lao động tiếp tục lan rộng đang ảnh hưởng tiêu cực cho việc các doanh nghiệp tái sản xuất, kinh doanh trở lại. Sau thời gian dài bị gián đoạn sản xuất kinh doanh thì thiếu hụt lao động và chi phí lao động tăng cao tiếp tục là các ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch COVID-19. Các chi phí y tế phát sinh từ việc phòng chống dịch bệnh cho đội ngũ công nhân cũng đe dọa hoạt động của doanh nghiệp vì chi phí tăng làm giá thành sản xuất bị “đội lên” và giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Dự báo về triển vọng của nền kinh tế và chiến lược thích ứng của doanh nghiệp
Dự báo về triển vọng của nền kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam đã trải qua quý III/2021 với sự sụt giảm sản lượng ở mức kỷ lục, tuy nhiên, đà suy giảm của nền kinh tế không quá bất ngờ khi các trung tâm kinh tế lớn của quốc gia đều chịu các tác động tiêu cực từ giãn cách xã hội nghiêm ngặt để phòng chống dịch bệnh. Mặc dù vậy, quý IV/2021 đang được kỳ vọng sẽ vực dậy các động lực tăng trưởng cho sản lượng quốc gia khi mà chỉ tiêu GDP trong 9 tháng đầu năm chỉ tăng được 1,42%. Nhìn chung việc tình hình tăng trưởng quý IV cũng như cả năm 2021 phụ thuộc nhiều vào tình hình mở cửa nền kinh tế cũng như diễn biến dịch bệnh ở cả trong nước và quốc tế. Mặc dù vậy, gần như chắc chắn nền kinh tế sẽ không đạt được mức tăng trưởng 6% như mục tiêu đặt ra từ cuối năm 2020. Cơ quan thống kê quốc gia đã đưa ra hai kịch bản, trong đó, kịch bản 1, tăng trưởng GDP cả năm đạt 2,5% và ở kịch bản 2, tăng trưởng GDP là 3%.
Bên cạnh việc đẩy mạnh độ phủ vắc xin thì các gói hỗ trợ kinh tế sẽ được các cơ quan chức năng nghiên cứu thực hiện để tạo đà cho sự phục hồi của nền kinh tế. Dự báo sẽ có các gói cứu trợ lớn được thực hiện trong thời gian tới mặc dù hiện tại các cơ quan chức năng vẫn chưa được chính thức quyết định và công bố. Tuy nhiên, triển vọng các gói cứu trợ được thực hiện đang tạo bầu không khí lạc quan và có tính lan tỏa rộng khắp các lĩnh vực kinh tế.
Dựa trên diễn biến dịch bệnh vẫn đang rất phức tạp, chưa thể kết thúc, chưa dự báo được thời gian tới có xuất hiện biến chủng nguy hiểm mới hay không. Trong bối cảnh đó, Việt Nam và nhiều quốc gia đã chuyển từ chiến lược “Zero COVID” sang chấp nhận “sống chung với COVID-19” để vừa có thể chống dịch nhưng vẫn đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội và an sinh xã hội. Như vậy, chiến lược thích ứng của các doanh nghiệp là chuyển sang giai đoạn sản xuất kinh doanh trong bối cảnh cộng đồng chấp nhận “sống chung “ với dịch bệnh.
Trong thời gian tới đây, các kế hoạch thích ứng với tình hình “bình thường mới” cần phải được thiết lập mau lẹ như quy trình chuyển đổi số cần đẩy mạnh tối đa để gia tăng các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên nền tảng số, quy trình kết hợp sản xuất kinh doanh với chiến lược phòng chống dịch bệnh 5K, quy trình thực hiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh trong bối cảnh các đợt giãn cách xã hội diễn ra trên quy mô nhỏ hẹp. Như vậy, các doanh nghiệp cần chuyển nhanh hoạt động sang bối cảnh “bình thường mới” với sự chuẩn bị, triển khai để “chung sống với dịch bệnh”. Dự báo trong thời gian tới các đơn hàng xuất khẩu sẽ gia tăng mạnh khi thế giới sắp có các đợt nghỉ lễ quan trọng vào dịp cuối năm 2021 và tạo dư địa phục hồi cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam ở nhiều lĩnh vực may mặc, giày dép, quần áo, các đồ quà tặng hiện đang tăng tốc sản xuất trở lại. Ngành du lịch được dự báo cũng sẽ phục hồi nhanh chóng khi nền kinh tế tái mở cửa để đón khách du lịch nước ngoài.
Chiến lược thích ứng của doanh nghiệp trong thời kỳ bình thường tiếp theo
Nguồn: Khảo sát doanh nghiệp VNR500, thực hiện bởi Vietnam Report - Tháng 11/2021
Nhận định về các chiến lược ưu tiên trong thời kỳ bình thường tiếp theo, các doanh nghiệp VNR500 trong khảo sát của Vietnam Report cho biết 76,3% doanh nghiệp quyết định tăng cường sử dụng công nghệ mới, đầu tư vào đổi mới sáng tạo và R&D; 71,1% doanh nghiệp lựa chọn bảo vệ hoạt động kinh doanh cốt lõi; 65,8% doanh nghiệp sẽ mở rộng sang các thị trường hoặc phân khúc mới; 64,5% doanh nghiệp thực hiện cải thiện năng lực kỹ thuật số của doanh nghiệp; và 50,0% doanh nghiệp quan tâm tới việc nâng cao trách nhiệm xã hội. Nhìn chung, trong thời gian tới, các doanh nghiệp VNR500 vẫn tập trung chú trọng tới ứng dụng công nghệ số một cách toàn diện, kiên định bảo vệ hoạt động kinh doanh cốt lõi và từng bước mở rộng phạm vi kinh doanh tới các thị trường tiềm năng.
Chuyển đổi số - chìa khóa thành công trong thời kỳ bình thường tiếp theo
Đại dịch COVID-19 bùng phát trên toàn thế giới đã làm thay đổi nhận thức kinh doanh trong nhiều lĩnh vực. Trong đó, các doanh nghiệp từ chỗ buộc phải chuyển đổi số sang dần chủ động thực hiện quá trình chuyển đổi như một xu hướng mới. Đại dịch COVID-19 là “cú hích mạnh” đối với cộng đồng doanh nghiệp, từ “miễn cưỡng” thực hiện xây dựng nền tảng công nghệ thông tin sang giai đoạn mới là “tích cực, chủ động” sử dụng nền tảng số như mũi nhọn để gia tăng khả năng cạnh tranh.
Nguồn: Khảo sát doanh nghiệp VNR500, thực hiện bởi Vietnam Report - Tháng 11/2021
Theo kết quả khảo sát được Vietnam Report tiến hành trong tháng 11 về chi phí cho quá trình chuyển đổi số tại doanh nghiệp, có 94,7% doanh nghiệp đã và đang đầu tư cho lĩnh vực này và chỉ có 5,3% doanh nghiệp không thực hiện chuyển đổi số. Cụ thể, 44,0% doanh nghiệp chi dưới 1% của tổng doanh thu cho quá trình chuyển đổi số; 40,1% doanh nghiệp chi từ 1% đến dưới 5% tổng doanh thu; 9,3% doanh nghiệp sử dụng từ 5% đến 10% tổng doanh thu và 1,3% doanh nghiệp tập trung đầu tư trên 10% tổng doanh thu để thực hiện chuyển đổi số. Như vậy, có thể thấy mức độ chi cho chuyển đổi số tại doanh nghiệp có sự phân hóa nhất định, nhưng nhìn chung, các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tham gia mạnh mẽ và sẵn sàng cho cuộc đua số hóa kể từ khi dịch COVID-19 xuất hiện và lan rộng.
Với các biện pháp giãn cách xã hội và để đảm bảo an toàn trong mùa dịch, đa phần các doanh nghiệp đều nhanh chóng triển khai ứng dụng chuyển đổi số trong điều hành hoạt động doanh nghiệp, hoạt động Marketing bán hàng, hoạt động quản lý nhân sự và tuyển dụng. Nhờ đó giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất và hiệu quả công việc và đặc biệt là vẫn đảm bảo hoạt động liên tục xuyên suốt trong giai đoạn dịch bùng phát.
Nguồn: Khảo sát doanh nghiệp VNR500, thực hiện bởi Vietnam Report - Tháng 11/2021
Mặc dù vậy, trên thực tế trong quá trình tiếp cận và ứng dụng chuyển đổi số, các doanh nghiệp vẫn gặp phải những khó khăn nhất định. Kết quả khảo sát được Vietnam Report thực hiện đối với các doanh nghiệp VNR500 cho thấy 72,5% doanh nghiệp không đủ nguồn lực chất lượng cao; 64,7% doanh nghiệp thiếu công cụ đảm bảo an ninh mạng và bảo mật dữ liệu; 61,5% doanh nghiệp nhận định đối tác kinh doanh của họ chưa sẵn sàng hợp tác về các giải pháp số; 53,8% doanh nghiệp thiếu chiến lược xây dựng hệ thống công nghệ số hóa và sự hỗ trợ/lãnh đạo từ quản lý cấp cao và 52,9% doanh nghiệp gặp khó khăn do thiếu cơ sở hạ tầng công nghệ cơ bản.
Quá trình chuyển đổi số đòi hỏi trình độ cao cả về nhân lực và công nghệ. Do vậy, để triển khai thành công chuyển đổi số cần có những chiến lược đẩy mạnh công nghệ số hiệu quả và tìm kiếm nguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng vận hành hệ thống công nghệ mới. Bên cạnh đó, chuyển đổi số phải bắt đầu từ tư duy và ý chí quyết tâm hành động của người lãnh đạo, sau đó mới từ từ thay đổi chiến lược kinh doanh, hình thức hoạt động của toàn doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã thành công trong tư duy truyền thống nên khá ngại thay đổi. Và khó khăn cuối cùng được các doanh nghiệp nêu ra là việc thiếu cơ sở hạ tầng công nghệ cơ bản. So với các nước trong khu vực, Việt Nam có chỉ số hạ tầng kết nối khá tốt, Chính phủ Việt Nam cũng xác định yếu tố cốt lõi giúp thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế toàn diện là đẩy mạnh về chuyển đổi số nên đã đưa ra những chính sách hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động này tại các doanh nghiệp. Vì vậy, kỳ vọng về sự chuyển biến tích cực và những khó khăn này sẽ dần được cải thiện trong tương lai là hoàn toàn có cơ sở.
Hy vọng sự chuyển mình kịp thời của cộng đồng doanh nghiệp sẽ tạo ra thế và lực mới, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước và nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực, như Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh: “Chuyển đổi số không phải là cuộc cách mạng của công nghệ mà là cuộc cách mạng về thể chế. Thể chế cần đi trước một bước và được điều chỉnh linh hoạt để chấp nhận những cái mới: công nghệ mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới, mô hình mới. Chỉ có đổi mới sáng tạo, Việt Nam mới thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình”.
Một số khuyến nghị chính sách cho cộng đồng doanh nghiệp trong thời gian tới
Mặc dù các doanh nghiệp đang phải chịu tác động tiêu cực trên nhiều khía cạnh đến từ nền kinh tế Việt Nam, tuy nhiên, tiềm năng tăng trưởng của thị trường vẫn rất khả quan. Thị trường mới nổi với gần 100 triệu dân, cơ cấu dân số trẻ và thu nhập đang ngày càng tăng thì kỳ vọng cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam sẽ cùng nhau vượt qua các khó khăn, thách thức trong giai đoạn đại dịch COVID-19 đang vẫn còn phức tạp. Các diễn biến tích cực trong phòng chống dịch bệnh và triển vọng về việc mở cửa nền kinh tế, nối lại giao thương với các quốc gia trên thế giới trong các tháng cuối năm 2021 - đầu năm 2022 đã mở ra những cơ hội lớn lao cho việc phát triển các ngành nghề trong tương lai nhưng cũng đồng thời xuất hiện những rủi ro, nguy cơ tiềm ẩn từ những hoạt động kinh tế do sự bất thường của dịch bệnh. Do đó, trong thời gian tới các doanh nghiệp của Việt Nam cần lưu ý một số vấn đề như sau:
Thứ nhất: Các doanh nghiệp cần phải tập trung nhiều hơn vào xây dụng chiến lược tổng thể để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thích ứng tốt nhất với tình hình dịch bệnh. Thiết lập nhanh chóng các khuôn khổ hành động trong bối cảnh “bình thường mới” với việc hướng đến “chung sống hòa bình với dịch bệnh” và thực hiện đồng thời hai mục tiêu vừa sản xuất, kinh doanh tốt và vừa chống dịch tốt.
Thứ hai: Đây là “khoảng lặng” để các doanh nghiệp nhìn nhận lại tổng thể cấu trúc tổ chức hoạt động, cấu trúc chuỗi giá trị, quy trình sản xuất kinh doanh. Từ đó, thực hiện nhanh chóng các hoạt động để cắt giảm các nguồn lực cho những lĩnh vực ít tiềm năng (hoặc mất tiềm năng do dịch bệnh) sang tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực đang hiệu quả nhất. Việc thu hẹp hoạt động kém hiệu quả và tiết kiệm nguồn lực là những vấn đề cần phải đặt ra trong giai đoạn mà thị trường diễn biến khá rủi ro như hiện nay. Các hoạt động tái cấu trúc và thậm chí là điều chỉnh chiến lược tổng thể là cần thiết.
Thứ ba: Tăng cường công tác quản trị rủi ro trong bối cảnh có thể xuất hiện thêm các biến thể mới của virus, dẫn đến sự bùng phát các làn sóng dịch mới trên thế giới. Mặc dù đại dịch COVID-19 phần nào đã có dấu hiệu hạ nhiệt nhưng diễn biến vẫn vô cùng khó lường. Do vậy, các doanh nghiệp cần chủ động đưa ra các kịch bản và phương án ứng phó nhằm giải quyết kịp thời những khó khăn có thể xảy đến, giảm thiểu tối đa những tổn thất và rủi ro mà doanh nghiệp có thể phải gánh chịu trong trường hợp dịch tái bùng phát với cấp độ nguy hiểm hơn.
Thứ tư: Trong hoạt động kinh doanh thì các vấn đề thách thức luôn ẩn chứa các cơ hội. Một số doanh nghiệp có nguồn lực dồi dào do tích lũy từ trước có thể tận dụng trong giai đoạn này để đẩy mạnh hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) nhằm thâu tóm các lĩnh vực, các hoạt động có tiềm năng “bùng nổ” trong các năm tới, khi mà đại dịch COVID-19 được kỳ vọng sẽ chấm dứt hoàn toàn.
Thứ năm: Đầu tư và phát triển các chiến lược chuyển đổi số hợp lý. Đại dịch COVID-19 đã mở ra một kỷ nguyên phát triển mạnh mẽ dẫn đến những sự thay đổi mang tính cơ cấu, trong đó có xu hướng người tiêu dùng thích ứng dụng kỹ thuật số và người lao động chuyển sang mô hình làm việc từ xa. Và quan trọng là các xu hướng này có thể sẽ còn kéo dài kể cả sau đại dịch. Khi mà thế giới ngày càng được kết nối mạnh mẽ hơn trên các nền tảng công nghệ số và công nghệ tự động hóa, được áp dụng vào hầu hết các ngành nghề thì sự phát triển của công nghệ thông tin lại càng diễn ra nhanh hơn bao giờ hết. Đặc biệt là khi bước vào thập kỉ mới, các công ty chú trọng hơn vào đổi mới và sáng tạo thay vì giảm chi phí như trước đây. Mặc dù đại dịch COVID-19 đang gây khó khăn không nhỏ về vấn đề nguồn vốn tài chính cho doanh nghiệp nhưng chi tiêu cho phát triển công nghệ thông tin để chuyển đổi số sẽ là xu hướng chủ đạo của cộng đồng doanh nghiệp trong các năm tiếp theo.
Vietnam Report